Nói chuyện với giới khoa học, chúng ta rất hay nghe về các thuật ngữ trên. Để hiểu hơn về các thuật ngữ đó, xin mạn phép giới thiệu ở đây bài viết của nhà Toán học Phùng Hồ Hải đăng trên Thông tin Toán học của Hội Toán học Việt Nam tập 16, số 4, tháng 12 năm 2012. Kiến thức nên được chia sẻ rộng rãi để xã hội ngày càng văn minh.
ISI, Open Access: Chất lượng hay
Số lượng
Phùng Hồ Hải (Viện Toán học)
1. CHỈ SỐ ẢNH HƯỞNG ISI
Chỉ số ảnh hưởng (Impact Factor-IF),
hay là chỉ số trích dẫn (Citation Index)
của một tạp chí được tính như sau. IF của
tạp chí A trong năm, ví dụ, 2011 bằng số
các trích dẫn từ tất cả các công bố trong
năm 2011 tới các công bố đăng trên A
trong hai năm 2009 và 2010, chia cho số
các công bố trên A trong hai năm 2009 và
2010. Tất nhiên, tất cả các số liệu được
lấy từ một cơ sở dữ liệu cụ thể nào đó,
do đó chỉ số trích dẫn của một tạp chí
sẽ phụ thuộc vào cơ sở dữ liệu dùng để
tính. Đây là cách người ta lượng hóa chất
lượng nghiên cứu thông qua một con số.
Lập luận hỗ trợ cho chỉ số trích dẫn dựa
trên hai bước suy luận:
- Thứ nhất, một công trình có giá trị
nếu nó được nhiều người quan tâm.
- Thứ hai, một công trình được nhiều
người quan tâm nếu nó có nhiều trích
dẫn.
Lập luận thứ nhất về cơ bản là đúng,
tuy nhiên tùy thuộc vào từng lĩnh vực
nghiên cứu, số lượng người quan tâm
thay đổi đáng kể. Tính thuyết phục của
khẳng định thứ hai ít hơn khẳng định thứ
nhất, vai trò của nó chỉ dừng lại ở những
khẳng định mang tính thống kê, chẳng
hạn nếu chỉ số trích dẫn trung bình của
các nhà toán học ở nước A chỉ bằng một
nửa chỉ số tương tự ở nước B thì nhìn
chung nền toán học nước B mạnh hơn ở
nước A.
Nói một cách ngắn gọn, chỉ số trích dẫn
hay chỉ số ảnh hưởng là các chỉ số thống
kê, nó có ý nghĩa với một cộng đồng lớn
nhưng với từng cá thể, việc sử dụng nó
cần hết sức cẩn trọng.
Chỉ số trích dẫn có uy tín nhất hiện nay
là chỉ số của Thomson Insitute for Scientific
Information (ISI). ISI không phải là
một viện nghiên cứu như người ta có thể
cảm nhận khi đọc tên của nó - Viện Thông
tin Khoa học. ISI xuất phát từ một ý tưởng
hết sức đơn giản: đánh giá một công trình
khoa học, một tạp chí khoa học, một nhà
khoa học, một ngành khoa học, một nền
khoa học bằng cách đếm số các trích dẫn
tới công trình, tạp chí hay ngành khoa
học đó. Công việc của ISI là đếm. Quan
trọng hơn, mục đích của ISI là lợi nhuận.
Tuy nhiên chỉ số ISI đang được dùng
như một thước đo quan trọng để đánh giá
chất lượng nghiên cứu tại một số nước
đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
Thực ra, tại Việt Nam, chúng ta đang sử
dụng chỉ số ảnh hưởng ở mức thô nhất,
mà tôi xin tạm gọi là "chuẩn ISI": một
công trình khoa học được coi là "có giá
trị" nếu nó được đăng trên một "tạp chí
ISI". "Tạp chí ISI" là các tạp chí trong
danh sách tạp chí được ISI tính chỉ số ảnh5
hưởng. Về cơ bản, đây là phần tốt nhất
trong tập hợp tất cả các tạp chí khoa học
hiện có. Tuy nhiên danh sách này cũng
khá dài, và ngày một dài hơn, do đó sự
chênh lệch về chất lượng giữa các tạp chí
ISI là rất lớn. Dù vậy, cho tới nay vẫn chưa
có tạp chí khoa học nào của Việt Nam là
tạp chí ISI.
Ảnh hưởng tiêu cực đầu tiên của
"chuẩn ISI" có thể thấy ở các tạp chí khoa
học của Việt Nam. Các tạp chí này bị
chính các nhà khoa học nghiêm túc của
chúng ta chối bỏ. Bởi các công trình của
họ nếu đăng trên đó, thì dù sau này có
được bao nhiêu công trình ISI khác trích
dẫn, vẫn không được coi là "có giá trị"
theo "chuẩn ISI". Hệ quả là không có tài
trợ khoa học. Đối với những nhà khoa học
này, tài trợ khoa học không chỉ là tiền, mà
còn là uy tín, còn là sự động viên.
2. TẠP CHÍ OPEN ACCESS
Open Access hiểu theo nghĩa rộng là
việc cho phép truy cập miễn phí tới một
cơ sở dữ liệu nào đó từ mạng internet.
Trong cộng đồng toán học, cơ sở lưu
trữ được biết đến nhiều nhất là ArXiv:
http://www.ArXiv.org. Cơ sở lưu trữ
ArXiv được xây dựng từ năm 1991 và tới
nay có thể nói đã chứa hầu hết những
công trình quan trọng nhất của toán học
đương đại. Đặc biệt công trình của nhà
toán học Nga G. Perelman, chứng minh
giả thuyết Poincaré, chỉ được lưu trữ trên
ArXiv chứ không được công bố trên một
tạp chí khoa học.
Năm 2001 Liên đoàn Toán học Thế giới
ra tuyên bố kêu gọi các nhà toán học tìm
mọi cách để chuyển tải miễn phí các công
trình của mình tới cộng đồng. Nguyên
văn lời kêu gọi viết "Open Access tới tài
liệu toán học là một mục tiêu quan trọng.
Mỗi chúng ta có thể đóng góp vào việc đạt
được mục tiêu đó bằng cách cung cấp dưới
dạng điện tử càng nhiều càng tốt các công
trình của bản thân... Hành động của chúng
ta sẽ góp phần vào việc mở rộng kho tài
liệu toán học miễn phí, đặc biệt sẽ giúp cho
các nhà khoa học với điều kiện không đầy
đủ về thư viện (1)".
Trong lĩnh vực xuất bản, Open Access
được hiểu là việc cho phép truy cập miễn
phí trên mạng internet tới các công trình
khoa học đăng trên các tạp chí có bình
duyệt (peer-review). Có hai dạng Open
Access được phân biệt dưới tên gọi Green
Open Access Self Archiving và Gold Open
Access Publishing(2)
.
Green Open Access Self Archiving
nghĩa là khi một tác giả công bố một công
trình khoa học và tự lưu trữ nó cho việc
tự do tham khảo tại một cơ sở lưu trữ
trên mạng nào đó. Từ một vài năm lại đây,
một số tạp chí khoa học, ví dụ các tạp chí
của Springer, cho phép các tác giả mua lại
bản quyền các công trình của chính mình.
Cụ thể là với giá khoảng 2.000 EUR trên
một công trình, các tác giả có thể làm cho
công trình của mình được truy cập miễn
phí.
Từ đầu những năm 1990 người ta cũng
ghi nhận một khuynh hướng mới trong
việc xuất bản tạp chí khoa học, đó là các
tạp chí Open Access, thường được gọi là
Gold Open Access để phân biệt với Green
Open Access. Trong cộng đồng toán, khởi
đầu có lẽ là một số cơ sở đại học hay
nghiên cứu, hoặc một cộng đồng chuyên
ngành hẹp lập ra một số tạp chí online phi
lợi nhuận. Mặt khác một số nhà xuất bản
cũng xây dựng các tạp chí Open Access
của mình. Đa số các tạp chí Open Access
thời đó không đòi hỏi tác giả phải nộp phí đăng bài. Tuy nhiên gần đây, một số tạp
chí Open Access bắt đầu đòi hỏi đóng phí
hoàn thiện (article processing charge),
chủ yếu là các tạp chí đã đạt được một
mức nào đó về chất lượng, chẳng hạn đã
được đưa vào danh sách ISI. Với phương
thức xuất bản này các nhà xuất bản có thể
đảm bảo được lợi nhuận của mình ngay
từ trước khi xuất bản.
Hindawi (http://www.hindawi.com)
là ví dụ điển hình. Theo Wikipedia, nhà
xuất bản này được thành lập năm 1997
với trụ sở chính tại Cairo và một văn
phòng tại New York. Hiện nay Hindawi
xuất bản hơn 300 đầu tạp chí Open Access,
trong số đó có 22 tạp chí thuộc ISI.
Phí hoàn thiện của một bài báo trên một
tạp chí như vậy thường phụ thuộc vào uy
tín của tạp chí đó. Cụ thể, khi đăng bài ở
một số tạp chí của Hindawi có trong danh
sách ISI, các tác giả phải trả từ khoảng
600 USD đến 1200 USD. Một số tạp chí ít
uy tín hơn của Hindawi vẫn tiếp tục đăng
bài miễn phí. Ngoài Hindawi có thể kể
đến một số nhà xuất bản sau:
- Scientific Research Publishing
(http://www.scirp.org/Journal).
- Hikari (http://www.m-hikari.com).
- Lambert
(https://www.lap-publishing.com).
- Pioneer Scientific Publishers
(http://www.pspchv.com).
- Institute of Advanced Scientific Research
(http://www.i-asr.com).
Có một lý giải có vẻ rất thuyết phục
cho phương thức xuất bản dạng "Open
Access". Đó là: "công trình của bạn sẽ dễ
dàng đến tay người đọc hơn, đặc biệt là
người đọc ở các nước đang phát triển nơi
mà giá của các tạp chí khoa học truyền
thống là không thể chịu nổi".
Thực ra đây là sự ngụy biện. Với sự
phát triển của internet ngày nay, mỗi cá
nhân đều có thể là một tác giả kiêm nhà
xuất bản. Vai trò chính của một tạp chí
khoa học chính là công tác phản biện.
Một tạp chí có uy tín cao nếu nó có một
ban biên tập uy tín, có khả năng mời được
các phản biện uy tín và nghiêm túc. Điều
này bị nhiều tạp chí "Open Access" trong
ngành toán coi nhẹ, nhiều tạp chí còn lôi
kéo tác giả bằng quảng cáo như "duyệt
đăng trong vòng hai tuần"(3)! Mọi chuyện
sẽ chẳng có gì để bàn nếu như không
có chuyện một số tạp chí "Open Access"
trong ngành toán được vào ISI trong vài
năm gần đây. Với xu hướng phân loại như
đã nói ở trên, ISI nghĩa là có giá trị, không
ISI thì vô giá trị, các tạp chí này thu hút
được nhiều công bố từ Việt Nam.
3. TÌNH HÌNH TRÍCH DẪN CỦA MỘT VÀI
TẠP CHÍ OPEN ACCESS
Chúng ta hãy thử tìm hiểu kỹ hơn một
vài tạp chí Open Access, với chỉ số ISI cao.
Tạp chí Journal of Inequalities and Applications
(viết tắt là JIA (4)) được xuất
bản bởi Springer. Chỉ số ISI theo công bố
của Springer là 0,73 - thuộc loại cao trong
các tạp chí toán. Đây vốn là một tạp chí
của Hindawi, xuất bản số đầu tiên năm
1997:
http://www.emis.de/journals/HOA/JIA
Năm 2012 tạp chí này được chuyển
cho Springer, vẫn tiếp tục phát hành dưới
dạng "Open Access". Phí hoàn thiện một
bài báo là 800 USD. Dưới đây là một số
thông tin về trích dẫn (TD) tới JIA theo cơ sở dữ liệu của Hội Toán học Mĩ (MathSciNet)(5).
Theo đó, từ 2007 tới nay, phần
lớn trong các trích dẫn (TD) sớm nhất tới
JIA là từ chính JIA và một tạp chí "bạn" là
Abstract and Applied Analysis (viết tắt là
AAA), cũng của Hindawi.
Hãy xem tạp chí Abstract and Applied
Analysis (6). Theo trang chủ của tạp chí
này thì chỉ số ISI hiện nay của nó là
1,318. Phí hoàn thiện là 1200 USD. Cơ
sở dữ liệu của Hội Toán học Mĩ (MathSciNet)
cho chúng ta biết, từ năm 2007
phần lớn các trích dẫn tới AAA là tự trích
dẫn hoặc từ JIA!
Nếu khảo sát kỹ hơn ta sẽ thấy tỷ lệ tự
trích giảm nhanh theo năm. Ví dụ số tự
trích của JIA từ 2011 tới 2009 là 42 trên
78, từ 2011 tới 2008 là 12 trên 38. Điều
này không khó hiểu nếu chúng ta nhớ là
chỉ số ảnh hưởng của ISI được tính trên
cơ sở 2 năm cuối.
Để so sánh ta hãy lấy tạp chí Acta Mathematica
Vietnamica (AMV)(7). Trong các
trích dẫn tới AMV của các bài báo ra năm
2011 chỉ có 5/24 là tự trích dẫn. Trong
các trích dẫn tới AMV của các bài báo ra
năm 2010 chỉ có 1/31 là tự trích dẫn và
với năm 2009 chỉ có 2 trên 16 là tự trích
dẫn. Với tạp chí Inventiones Mathematicae
các số liệu là như sau: tự trích dẫn của
Invent. trong năm 2011 tới 2010 là 5/136
tới 2009 là 11/147, tới 2008 là 4/198.
ISI luôn rao giảng về sự ưu việt của
mình trong công tác đánh giá khoa học.
Nhưng các thống kê ở trên đặt cho chúng
ta câu hỏi: Liệu các tạp chí này có đang
cố tình nâng chỉ số ISI của mình một cách
tinh vi? ISI không đủ khả năng phát hiện
ngụy tạo trích dẫn, hay họ làm ngơ?
Con số các công bố trên AAA và JIA
tăng mạnh trong mấy năm lại đây cho ta
thấy sức mạnh của lợi nhuận. Theo thống
kê tới thời điểm này của MathSciNet, năm
2012 AAA xuất bản 431 bài báo và JIA
xuất bản 161 bài báo. Cũng trên trang
web của Hindawi, số các công trình về
toán từ Việt Nam tăng nhanh theo năm:
2007 có 2 công trình, 2008 có 3 công
trình, 2009 có 3 công trình, 2010 có 5
công trình, 2011 có 10 công trình và 2012
có 13 công trình(8)
.
4. ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA CHỈ SỐ ISI
TỚI TOÁN HỌC VIỆT NAM
Chỉ số ISI có những ảnh hưởng tiêu cực
sau đây tới tình hình nghiên cứu toán học
trong nước:
- Sự phân loại quá thô, không thể hiện
chính xác chất lượng nghiên cứu;
- Đôi khi thiếu chính xác, tạo ra những
kẽ hở dễ bị lợi dụng;
- Giảm chất lượng các tạp chí trong
nước, thủ tiêu động lực nghiên cứu
nghiêm túc, đặc biệt là của cán bộ trẻ.
ISI hiện đang được coi là chuẩn mực
cho việc đánh giá nghiên cứu khoa học cơ
bản ở Việt Nam. Chỉ ba năm trước đa số
các nhà khoa học đều coi đó như là bước
ngoặt trong công tác quản lý khoa học
nước ta. Có lẽ một số người đã yên tâm
rằng "giờ thì trắng đen rõ ràng, không
có công bố ISI nghĩa là kém, xin mời ra
ngoài". Tuy nhiên suy luận logic đặt ra
câu hỏi: Có ISI liệu có chắc chắn là "không
kém" không?
Việc khảo sát hai tạp chí JIA và AAA
của Hindawi với tạp chí Acta Mathematica
Vietnamica ở trên phần nào trả lời cho
câu hỏi này: chỉ số ISI có thể bị ngụy tạo.
Có thể đưa ra nhiều ví dụ nữa về các
tạp chí trong danh sách ISI nhưng có chất
lượng không hơn hai tạp chí của Việt Nam
nếu nhìn từ tiêu chí của chỉ số trích dẫn.
Chẳng hạn, các tạp chí Bull. Malaysian
Math. Soc., Bull. Iranian Math. Soc., Bull.
Korean Math. Soc. là ISI, tuy nhiên chỉ số
trích dẫn trên MathSciNet luôn kém tạp
chí Acta Mathematica Vietnamica.
Đại đa số các nhà toán học làm việc tại
Việt Nam đều có công bố trên các tạp chí
trong danh mục ISI, tính từ GS. Lê Văn
Thiêm trở đi, số người có hàng chục công
trình như vậy trong 10 năm lại đây không
phải hiếm. Như vậy "cái lọc" ISI để đánh
giá chất lượng nghiên cứu có thể nói là
quá thô.
Về chất lượng, các tạp chí được phân
bố theo mô hình kim tự tháp. Trên cùng
là một số ít các tạp chí rất tốt, càng giảm
chất lượng, số các tạp chí càng nhiều
hơn. Việc xác định các tạp chí ở tốp cao
nhất không khó. Những tạp chí này hội
đủ những tiêu chí khắt khe và đa dạng
nhất: đa ngành, có chỉ số ảnh hưởng cao,
đăng những công bố quan trọng nhất của
những nhà toán học có ảnh hưởng nhất...
Đơn cử, với bất cứ hệ thống tiêu chí nào
thì hai tạp chí Annals of Mathematics và
Inventiones Mathematicae cũng luôn có
mặt ở top cao nhất. Việc so sánh các tạp
chí ở mức thấp hơn sẽ càng lúc càng khó
hơn bởi các yếu tố chuyên ngành, cộng
đồng, khu vực... Thông thường chúng ta
chỉ có thể so sánh một tạp chí cụ thể với
một số tạp chí khác chứ không phải với
bất kỳ tạp chí nào. Nói hình tượng, chúng
ta có một tập sắp thứ tự từng phần của
các tạp chí.
Khuynh hướng công bố của một tác giả
luôn là để "tự khẳng định mình", luôn
mong muốn công bố được công trình của
mình trên tạp chí với chất lượng cao nhất
có thể. Mỗi một nhà toán học thực thụ
đều có một bảng sắp xếp của riêng mình
bao gồm tất cả các tạp chí liên quan tới
chuyên ngành hẹp của anh ta. Khuynh
hướng tự nhiên của anh ta là đăng ở tạp
chí chất lượng càng cao càng tốt.
Phương pháp đánh giá dựa ISI của
chúng ta hiện nay đánh đồng phần cao
nhất của kim tự tháp các tạp chí đồng
thời gạt ra ngoài cuộc chơi các tạp chí
còn lại. Việc "cào bằng" các tạp chí và tệ
hơn là "đếm cơ học" số công trình sẽ thủ9
tiêu hoàn toàn động lực "tự khẳng định
mình một cách tự nhiên" như đã nêu ở
trên. Dường như chất lượng không còn
quan trọng nữa mà chỉ còn số lượng. Với
những chủ trương kiểu "thưởng cho mỗi
công trình ISI 2000 USD", các nhà khoa
học, nhất là những người mới vào nghề
sẽ không thể yên tâm ngồi 3 năm để cho
ra một công trình khoa học(9), mà thay
vào đó là một năm 3 công trình.
Mặt khác, các tạp chí yếu theo tiêu chí
ISI, chủ yếu là các tạp chí mới, tạp chí
khu vực, cũng không chịu bị gạt ra ngoài
cuộc chơi. Bằng cách này hay cách khác
các tạp chí phải tìm cách vào bằng được
ISI, "ISI hay là chết!". Trong một buổi
làm việc gần đây với NXB Springer chúng
tôi được biết, năm 2011 đã có thêm 30
tạp chí của Springer được vào danh sách
ISI. Springer hiện nay xuất bản khoảng
1300 tạp chí khoa học. Việc danh sách ISI
ngày càng được kéo dài đồng nghĩa với
việc chất lượng của tiêu chí ISI ngày càng
được hạ thấp. Tất nhiên Springer là nhà
xuất bản uy tín nhất về khoa học, đặc biệt
là toán học và chúng ta có thể hy vọng
các tạp chí của họ luôn giữ được những
yêu cầu cơ bản nhất của một tạp chí khoa
học.
Bên cạnh Springer còn những nhà xuất
bản như Hindawi và nhiều nhà xuất bản
Open Access khác. Mặc dù Hindawi mới
thành lập được 15 năm (so với Springer
năm nay tròn 170 tuổi) nhưng nhà xuất
bản này đã có hơn 300 đầu tạp chí. Thật
khó có thể tin được chất lượng công trình
ở đây, khi mà tác giả được đảm bảo: mọi
công trình gửi đăng sẽ được phản biện
trong vòng 2 tháng (có nhà xuất bản còn
hạ con số này xuống tới 2 tuần (10)).
Với tiêu chí ISI như hiện nay, chúng ta
đang vô tình hạ chuẩn của toán học Việt
Nam, triệt tiêu động lực nghiên cứu của
giới làm toán và nguy hiểm nhất, là tạo
cho thế hệ trẻ một tư duy lệch lạc ngay
từ trước khi bắt đầu nghiên cứu.
5. LỜI KẾT
Trong năm qua Hội đồng ngành Toán
của Quỹ Nafosted cũng như Hội đồng
chức danh Giáo sư ngành Toán đã kiên
quyết không tính các công trình đăng
trên một số tạp chí Open Access có chất
lượng không đảm bảo, dù các tạp chí đó
nằm trong danh sách ISI. Thiết nghĩ, cộng
đồng toán học cần có thái độ dứt khoát
phản đổi việc công bố trên các tạp chí
ISI phải đóng tiền. Đối với ngành Toán,
không có một lý giải thuyết phục nào cho
việc công bố công trình trên những tạp
chí phải đóng tiền, dù cho đó là tạp chí
ISI: chúng ta có quá nhiều tạp chí có chất
lượng mà việc công bố là hoàn toàn miễn
phí, chúng ta cũng có đủ phương tiện để
cung cấp miễn phí các kết quả nghiên cứu
của mình cho toàn bộ cộng đồng toán học
thế giới.
Hơn thế nữa, đã đến lúc phải xem lại
tiêu chí ISI trong việc đánh giá chất lượng
nghiên cứu toán học ở Việt Nam. Chúng
ta cần một cách phân loại mịn hơn, nhằm
khuyến khích mọi người công bố những
công trình chất lượng hơn, thay vì có
nhiều công bố. "Chú trọng vào chất lượng
thay vì số lượng" cũng là điều mà Wendelin
Werner, Fields Medal 2006, thành
viên Ban điều hành Liên đoàn Toán học
thế giới chia sẻ trong buổi làm việc với
các cán bộ Viện Toán học ngày 3/1/2013.
(1)http://www.ams.org/meetings/call
(2)Xem thêm http://en.wikipedia.org/wiki/Open_access
(3)Ví dụ: http://www.ccsenet.org/journal/index.php/jmr (4)http://www.journalofinequalitiesandapplications.com
(5)http://www.ams.org/mathscinet
(6)http://www.hindawi.com/journals/aaa
(7)http://www.math.ac.vn/publications/acta
(8)http://www.hindawi.com/countries/vn8
(9)A. N. Kolmogorov đã từng dạy các học trò ông khi bước vào làm nghiên cứu sinh: để có được một
công trình khoa học thực thụ cần phải có ba nghìn giờ nghiên cứu.
(10)Xem thêm TTTH Tập 14, số 4.
Không có gì đo lường hoàn hảo nhưng ISI vẫn là the best nhé.
ReplyDeleteThis comment has been removed by the author.
ReplyDeleteVới dân toán các Anh thì ISI là phổ cập, và Nafosted đỏi hỏi IF phải thuộc top Q1. Với dân khoa học xã hội thì ISI là cái gì đó xa lạ và không áp dụng, thật đáng buồn vì bài báo ISI=trong nước. Thực tế là trong khoa học xã hội có bài đăng ISI là rất khó, nên càng phải khuyên khích chứ, bài trong ISI đã tốt, và bài ISI ở tạp chí tốt thì càng trân trọng hơn.
ReplyDeleteCó thước đo nào tốt hơn ISI?
ReplyDelete